LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ
Tôi đã viết quyển The Third Eye (Con Mắt Thứ Ba) khi ở nước Anh, quyển sách này được viết theo đúng sự thật, nhưng nó cũng đã gây nên nhiều tranh cãi. Nhiều bức thư được gửi đến từ khắp nơi trên thế giới, và để đáp ứng yêu cầu của các độc giả quan tâm, tôi đã viết tiếp quyển sách này, Doctor From Lhasa (Bác Sĩ đến từ Lhasa).
Những kinh nghiệm của tôi, như sẽ đề cập đến trong quyển sách Con Mắt Thứ Ba, vượt xa những trải nghiệm mà hầu hết mọi người đã phải chịu đựng, và trong cuộc đời, nếu các trải nghiệm đó có xảy ra đồng thời thì cũng chỉ có một vài trường hợp mà thôi. Dẫu sao thì nó cũng không phải là mục tiêu của cuốn sách này, được viết tiếp về tự truyện của tôi.
WHEN I was in England I wrote The Third Eye, a book which is true, but which has caused much comment. Letters came in from all over the world, and in answer to requests I wrote this book, Doctor from Lhasa.
My experiences, as will be told in a third book, have been far beyond that which most people have to endure, experiences which are paralleled only in a few cases in history. That, though, is not the object of this book which deals with a continuation of my autobiography.
Tôi là một Lạt ma Tây Tạng đến với thế giới phương Tây để theo đuổi đến cùng vận mệnh của tôi, đến và vượt qua tất cả những khó khăn như đã được tiên tri từ thủa thiếu thời. Thật không may, người phương Tây nhìn nhận tôi như một đồ cổ, một mẫu người cần được đặt trong một cái lồng và trưng bày như một con quái vật đến từ một thế giới không ai biết đến. Điều đó làm cho tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra cho những người bạn cũ của tôi, những Người Tuyết hoang dã, nếu những người phương Tây bắt được họ, và thực tế thì họ đang cố gắng làm điều đó.
Chắc chắn là Người Tuyết sẽ bị bắn, bị nhồi, và trưng bày trong viện bảo tàng. Thậm chí sau đó người ta sẽ tranh luận và nói rằng không có những thứ như Người Tuyết! Đối với tôi rất khó để tin rằng người phương Tây có thể tin vào truyền hình và tàu vũ trụ có thể bay vòng quanh Mặt Trăng và trở về nhưng lại không công nhận Người Tuyết hoặc “Vật thể Bay Không xác định”, tóm lại là bất cứ cái gì mà họ không thể cầm trong tay và xé rách thành từng mảnh để xem nó hoạt động như thế nào.
I am a Tibetan lama who came to the western world in pursuance of his destiny, came as was foretold, and endured all the hardships as foretold. Unfortunately, western people looked upon me as a curio, as a specimen who should be put in a cage and shown off as a freak from the unknown. It made me wonder what would happen to my old friends, the Yetis, if the westerners got hold of them—as they are trying to do.
Undoubtedly the Yeti would be shot, stuffed, and put in some museum. Even then people would argue and say that there were no such things as Yetis! To me it is strange beyond belief that western people can believe in television, and in space rockets that may circle the Moon and return and yet not credit Yetis or “Unknown Flying Objects,” or, in fact, anything which they cannot hold in their hands and pull to pieces to see what makes it work.
Nhưng bây giờ công việc khó khăn của tôi là chỉ đưa vào một vài trang các chi tiết của tuổi ấu thơ của mình trước khi viết cuốn sách. Tôi được sinh ra trong một gia đình quý tộc, một trong những gia đình hàng đầu ở Lhasa, thủ phủ của Tây Tạng. Cha mẹ tôi có nhiều điều để nói về việc lãnh đạo đất nước, và vì tôi thuộc đẳng cấp cao nên tôi đã được huấn luyện khắc nghiệt, phù hợp với vị trí của mình trong tương lai. Sau đó, trước khi tôi lên bảy tuổi, theo tục lệ, các nhà Chiêm tinh của Tây Tạng sẽ cho biết con đường sự nghiệp trong tương lai của tôi. Để chuẩn bị cho sự kiện đó, cha mẹ tôi chuẩn bị một bữa tiệc lớn, các quan khách bao gồm tất cả các quan chức hàng đầu, các nhà quý tộc của thủ đô Lhasa được mời tham dự để nghe các nhà Chiêm tinh quyết đoán về số phận tôi. Cuối cùng thì ngày đó cũng đã đến.
Quan khách kéo đến chật ních trong nhà tôi. Các nhà Chiêm tinh đến với lá số, những biểu đồ và tất cả những thứ cần thiết cho công việc tiên tri của họ. Khi thời điểm thích hợp đã đến, tất cả mọi người tập trung lại với sự phấn khích đặc biệt, vị Thiên Giám Quan Trưởng long trọng tuyên bố phát hiện của mình, rằng khi lên bảy tuổi, tôi cần được vào tu tập trong lạt ma viện để được thụ huấn như một tu sĩ kiêm y sĩ giải phẫu. Những điều tiên tri về toàn bộ cuộc đời tôi đã được vạch ra, và thực tế, những nỗi đau đớn đã xảy ra đúng như lời tiên tri. Tôi nói “nỗi đau đớn” là bởi vì những thử thách đều là nỗi bất hạnh, gian nan và khổ đau, và cũng không dễ dàng hơn chút nào khi người ta biết trước rằng mình sẽ phải chịu đựng nó.
But now I have the formidable task of putting into just a few pages that which before took a whole book, the details of my early childhood. I came of a very high-ranking family, one of the leading families in Lhasa, the capital of Tibet. My parents had much to say in the control of the country, and because I was of high rank I was given severe training so that, it was considered, I should be fit to take my place. Then, before I was seven years of age, in accordance with our established custom, the Astrologer Priests of Tibet were consulted to see what type of career would be open to me. For days before these preparations went forward, preparations for an immense party at which all the leading citizens, all the notabilities of Lhasa would come to hear my fate. Eventually the Day of Prophecy arrived. Our estate was thronged with people. The Astrologers came armed with their sheets of paper, with their charts, and with all the essentials of their profession. Then, at the appropriate time, when everyone had been built up to a high pitch of excitement, the Chief Astrologer pronounced his findings. It was solemnly proclaimed that I should enter a lamasery at the age of seven, and be trained as a priest, and as a priest surgeon. Many predictions were made about my life; in fact the whole of my life was outlined. To my great sorrow everything they said has come true. I say “sorrow” because most of it has been misfortune, and hardship, and suffering, and it does not make it any easier when one knows all that one is to suffer.
Tôi lủi thủi cô đơn một mình đi đến tu viện Chakpori khi tôi lên bảy tuổi. Ngay tại cổng vào tôi đã bị giữ lại, và phải trải qua một thử thách để xem liệu tôi có đủ cứng cỏi, mạnh mẽ để theo được những năm tháng huấn luyện tại đây hay không.
Tôi đã vượt qua thử thách và được nhận vào tu viện. Tôi đã trải qua tất cả các giai đoạn từ một tiểu sơ cơ, và cuối cùng tôi đã trở thành một Lạt ma, và Sư trưởng. Y học và giải phẫu là những điểm mạnh đặc biệt của tôi. Tôi đã nghiên cứu về lĩnh vực này với sự khao khát, và tôi đã được hưởng mọi điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu xác chết. Ở phương Tây người ta tin rằng các Lạt ma Tây Tạng không bao giờ làm bất cứ điều gì với các cơ thể con người theo nghĩa mổ tử thi.
Có quan niệm cho rằng, có vẻ như y khoa Tây Tạng non kém, bởi vì các Lạt ma y tế chỉ điều trị các bệnh bên ngoài chứ không phải các bệnh bên trong cơ thể. Điều đó là hoàn toàn sai lầm. Tôi đồng ý là điều đó đúng với các Lạt ma bình thường, họ không bao giờ mổ một cơ thể, bởi vì điều đó trái ngược với đức tin của họ. Nhưng có những người đặc biệt trong các số các vị Lạt ma, mà tôi là một trong số đó, những người được đào tạo để thực hiện những ca mổ và những hoạt động đó thậm chí có thể vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết của khoa học phương Tây.
I entered the Chakpori lamasery when I was seven years of age, making my lonely way along the path. At the entrance I was kept, and had to undergo an ordeal to see if I was hard enough, tough enough to undergo the training. This I passed, and then I was allowed to enter. I went through all the stages from an absolutely raw beginner, and in the end I became a lama, and an abbot. Medicine and surgery were my particular strong points. I studied these with avidity, and I was given every facility to study dead bodies. It is a belief in the west that the lamas of Tibet never do anything to bodies if it means making an opening. The belief is, apparently, that Tibetan medical science is rudimentary, because the medical lamas treat only the exterior and not the interior. That is not correct. The ordinary lama, I agree, never opens a body, it is against his own form of belief. But there was a special nucleus of lamas, of whom I was one, who were trained to do operations, and to do operations which were possibly even beyond the scope of western science.
Thời gian trước đây, ở phương Tây người ta cho là y học Tây Tạng dạy rằng người đàn ông có trái tim của mình ở bên này, và người phụ nữ có trái tim ở phía bên kia. Không có gì vô lý hơn thế. Thông tin kiểu đó đã được truyền lại cho người phương Tây bởi những người không có kiến thức thực tế về những gì họ đang viết, bởi vì một vài vấn đề được đề cập có liên quan đến thể vía, đây lại là một điều hoàn toàn khác. Tuy nhiên, cuốn sách này không đề cập đến điều đó.
In passing there is also a belief in the west that Tibetan medicine teaches that the man has his heart on one side, and the woman has her heart on the other side. Nothing could be more ridiculous. Information such as this has been passed on to the western people by those who have no real knowledge of what they are writing about, because some of the charts to which they refer deal with astral bodies instead, a very different matter. However, that has nothing to do with this book.
Tôi được đào tạo thực sự chu đáo, bởi vì tôi phải biết không chỉ các môn chuyên ngành về y học và phẫu thuật, mà còn phải học thật tốt tất cả Giáo lý, cũng bởi vì tôi là một lạt ma y tế, tôi cũng đã phải trải qua các kỳ thi như một tu sĩ được đào tạo đầy đủ theo quy định của tôn giáo. Vì vậy, việc học tập cả hai ngành cùng một lúc là cần thiết, và điều đó có nghĩa là tôi phải học gian khổ gấp đôi một tu sĩ bình thường. Tôi không cho là mình đã làm điều gì đó ghê gớm!
My training was very intensive indeed, because I had to know not only my specialized subjects of medicine and surgery, but all the Scriptures as well because, as well as being a medical lama, I also had to pass as a religious one, as a fully trained priest. So it was necessary to study for two branches at once, and that meant studying twice as hard as the average. I did not look upon that with any great favour!
Nhưng tất nhiên, đó chưa phải là tất cả những khó khăn mà tôi đã trải qua. Tôi đã đi tới nhiều vùng núi cao hơn nữa của Tây Tạng – Lhasa ở độ cao trên bốn ngàn thước so với mực nước biển – để thu thập các loại thảo mộc. Nền y học mà tôi được đào tạo sử dụng thảo dược để chữa trị bệnh, và tại tu viện Chakpori, chúng tôi luôn luôn có ít nhất 6,000 loại thảo dược khác nhau được bảo quản trong kho. Người Tây Tạng chúng tôi tin rằng dân tộc chúng tôi biết chữa bệnh bằng thảo dược nhiều hơn bất cứ dân tộc nào khác trên trái đất này. Đến nay, sau nhiều năm trôi qua, tôi đã đi khắp nơi trên thế giới và niềm tin ấy trong tôi càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
But it was not all hardship, of course. I took many trips to the higher parts of Tibet—Lhasa is 12,000 feet above sea level—gathering herbs, because we based our medical training upon herbal treatment, and at Chakpori we always had at least 6,000 different types of herb in stock. We Tibetans believe that we know more about herbal treatment than people in any other part of the world. Now that I have been around the world several times that belief is strengthened.
Trong một số chuyến đi lên vùng núi cao Tây Tạng, tôi đã bay trên những chiếc diều có người lái, bay liệng phía trên những mỏm đá nhọn lởm chởm của những dải núi cao, và tìm kiếm hết dặm này đến dặm khác trên khắp vùng núi. Tôi cũng đã tham gia vào cuộc thám hiểm đáng ghi nhớ tới hầu hết các vùng mà con người hầu như không thể đến được, đến cả Cao nguyên Chang Tang, miền đất cao nhất của Tây Tạng. Đoàn thám hiểm chúng tôi còn tìm thấy một thung lũng hẻo lánh ấm áp nằm giữa những khe nứt trong đá, được sưởi ấm bởi những ngọn lửa vĩnh cửu trong lòng trái đất, những ngọn lửa này làm nước sôi sùng sục trước khi chảy vào dòng sông. Chúng tôi cũng tìm thấy một thành phố rộng lớn, một nửa thành phố nằm trong vùng không khí nóng của thung lũng bị che khuất, và phần còn lại bị chôn vùi dưới dòng sông băng trong suốt. Băng trong đến mức có thể nhìn thấy thành phố như thể nhìn qua làn nước trong vắt vậy. Vùng đất của thành phố đã được tan khỏi băng tuyết gần như còn nguyên vẹn. Thời gian hầu như không làm ảnh hưởng tới các tòa nhà. Nơi đây có không khí nhưng hầu như không có gió, và chính điều đó đã cứu cho các tòa nhà thoát khỏi sự hủy hoại. Chúng tôi đi bộ dọc theo các con phố, nơi mà hàng ngàn, hàng ngàn năm về trước, những con người đầu tiên đã bước trên đó. Chúng tôi đi lang thang, qua các ngôi nhà, mà như thể chúng đang chờ chủ nhân của mình trở về, cho tới khi chúng tôi để ý hơn và nhìn thấy những bộ xương kỳ lạ, những bộ xương đã hóa thạch, và rồi lúc đó chúng tôi mới nhận ra rằng đây là một thành phố chết. Có những thiết bị lạ lùng, điều đó cho thấy rằng thung lũng bí ẩn này đã từng là quê hương của một nền văn minh cao hơn rất nhiều so với bất kỳ nơi nào trên trái đất ngày nay. Nó chứng minh một cách thuyết phục rằng chúng ta bây giờ rất lạc hậu so với người xưa: Trong cuốn sách này, cuốn sách thứ hai của mình, tôi sẽ viết nhiều hơn về thành phố đó.
On several of my trips to the higher parts of Tibet I flew in man-lifting kites, soaring above the jagged peaks of the high mountain ranges, and looking for miles, and miles, over the countryside. I also took part in a memorable expedition to the almost inaccessible part of Tibet, to the highest part of the Chang Tang Highlands. Here, we of the expedition found a deeply secluded valley between clefts in the rock, and warmed, warmed by the eternal fires of the earth, which caused hot waters to bubble out and flow into the river. We found, too, a mighty city, half of it exposed in the hot air of the hidden valley, and the other half buried in the clear ice of a glacier. Ice so clear that the other part of the city was visible as if through the very clearest water. That part of the city which has been thawed out was almost intact. The years had dealt gently indeed with the buildings. The still air, the absence of wind, had saved the buildings from damage by attrition. We walked along the streets, the first people to tread those streets for thousands and thousands of years. We wandered at will through houses which looked as if they were awaiting their owners, until we looked a little more closely and saw strange skeletons, petrified skeletons, and then we realized that here was a dead city. There were many fantastic devices which indicated that this hidden valley had once been the home of a civilization far greater than any now upon the face of the earth. It proved conclusively to us that we were now as savages compared to the people of that bygone age. But in this, the second book, I write more of that city.
Khi còn nhỏ, tôi đã trải qua một cuộc phẫu thuật đặc biệt để mở con mắt thứ ba. Một mảnh gỗ cứng đặc biệt, sau khi đã ngâm trong dung dịch thảo dược đặc biệt, được đưa vào giữa trán của tôi để kích thích một tuyến mà nó làm cho tôi tăng khả năng nhìn thấu được cả những cái vô hình. Tôi sinh ra vốn đã có khả năng thấu thị rõ rệt, nhưng rồi sau cuộc phẫu thuật, tôi thực sự khác thường, và tôi có thể nhìn thấy mọi người với hào quang bao quanh họ, như thể họ được cuộn trong những ngọn lửa mầu sắc bồng bềnh. Từ hào quang của họ tôi có thể đoán được những suy nghĩ của họ, biết được họ ốm vì bệnh gì, những hy vọng và nỗi sợ hãi của họ.
Bây giờ tôi đã rời khỏi Tây Tạng, tôi đang cố gắng thuyết phục các bác sĩ phương Tây về một phương pháp mà nó có thể cho phép các bác sĩ nhìn thấy hào quang của con người. Tôi biết rằng nếu các bác sĩ có thể nhìn thấy hào quang, họ có thể thực sự nhận biết được điều gì đã ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Bằng cách nhìn vào mầu sắc và hình dáng của những dải màu rung động của hào quang, các chuyên gia có thể xác định một cách chính xác người đó đang bị bệnh gì. Hơn nữa, phương pháp này có thể cho biết sớm khi có bất kỳ dấu hiệu nào có thể nhận biết được trong cơ thể vật lý của con người, bởi vì hào quang cho thấy bằng chứng của bệnh ung thư, lao, và những căn bệnh khác nhiều tháng trước khi nó thực sự tấn công vào cơ thể vật lý. Như vậy, bằng cách cảnh báo sớm trước khi khởi phát bệnh, bác sĩ có thể điều trị và chữa bệnh không thể sai lầm được. Tôi thực sự thất vọng và buồn sâu sắc, vì các bác sĩ phương Tây hoàn toàn không quan tâm. Họ cho rằng đó là ma thuật, chứ không phải theo ý nghĩa hoàn toàn bình thường. Bất cứ một người kỹ sư nào cũng biết rằng dây điện cao áp có vầng hào quang xung quanh. Cơ thể con người cũng vậy, đó cũng chỉ là một điều rất đỗi bình thường về khía cạnh vật chất mà tôi muốn chỉ ra cho các chuyên gia, nhưng họ từ chối. Đó là một bi kịch. Sẽ có lúc họ phải nhìn nhận nó, nhưng bi kịch là ở chỗ từ giờ cho tới khi các nhà khoa học thay đổi cách suy nghĩ sẽ còn nhiều người phải chịu đau đớn và bị chết một cách không cần thiết.
When I was quite young I had a special operation which was called the opening of the third eye. In it a sliver of hard wood, which had been soaked in special herbal solutions, was inserted in the centre of my forehead in order to stimulate a gland which gave me increased powers of clairvoyance. I was born markedly clairvoyant, but then, after the operation, I was really abnormally so, and I could see people with their aura around them as if they were wreathed in flames of fluctuating colours. From their auras I could divine their thoughts; what ailed them, what their hopes and fears were. Now that I have left Tibet I am trying to interest western doctors in a device which would enable any doctor and surgeon to see the human aura as it really is, in colour. I know that if doctors and surgeons can see the aura, they can see what really affects a person. So that by looking at the colours, and by the outline of the moving bands, the specialist can tell exactly what illnesses a person is suffering from. Moreover, this can be told before there is any visible sign in the physical body itself, because the aura shows evidence of cancer, TB (Tuberculosis, short for tubercle bacillus), and other complaints, many months before it attacks the physical body. Thus, by having such early warning of the onset of disease the doctor can treat the complaint, and cure it infallibly. To my horror, and very deep sorrow, western doctors are not at all interested. They appear to think it is something to do with magic, instead of being just ordinary common sense, as it is. Any engineer will know that high tension wires have a corona around them. So has the human body, and it is just an ordinary physical thing which I want to show to the specialists, and they reject it. That is a tragedy. But it will come in time. The tragedy is that so many people must suffer and die needlessly, until it does come.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba là người bảo trợ của tôi. Ngài đã ra lệnh dành cho tôi mọi sự hỗ trợ cần thiết trong đào tạo và truyền đạt kinh nghiệm. Ngài yêu cầu tôi cần phải được thụ huấn tối đa có thể, bằng cách giảng dạy trực tiếp, cũng như bằng phương pháp thôi miên và các phương pháp khác nữa mà tôi sẽ không đề cập đến trong cuốn sách này. Một số phương pháp được đề cập đến trong cuốn sách này, hoặc trong cuốn sách Con Mắt Thứ Ba. Những phương pháp khác còn mới lạ, và không thể tin được với trình độ nhận thức của khoa học hiện nay.
The Dalai Lama, the thirteenth Dalai Lama, was my patron. He ordered that I should receive every possible assistance in training, and in experience. He directed that I should be taught everything that could be crammed into me, and as well as being taught by the ordinary oral system I was also instructed by hypnosis, and by various other forms which there is no need to mention here. Some of them are dealt with in this book, or in The Third Eye. Others are so novel, and so incredible that the time is not ripe for them to be discussed.
Nhờ có năng lực thấu thị, tôi đã trợ giúp cho Đấng Thái Tuế trong nhiều dịp. Tôi đã ẩn mình trong căn phòng để làm sáng tỏ những suy nghĩ và ý định thực sự của một người thông qua việc quan sát hào quang của họ. Điều này đã được thực hiện để xem xét lời phát biểu và suy nghĩ của một số người, đặc biệt khi họ là các chính khách nước ngoài đến thăm Đức Đạt Lai Lạt ma. Tôi đã ẩn mình quan sát phái đoàn Trung Quốc khi họ được Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười ba đón tiếp. Tôi cũng đã ẩn mình quan sát khi một người Anh đến gặp Ngài, nhưng lần này, tôi suýt nữa thì không hoàn thành nhiệm vụ chỉ vì tôi hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên nhìn thấy trang phục kỳ lạ của người khách Châu Âu.
Because of my powers of clairvoyance I was able to be of a great assistance to the Inmost One on various occasions. I was hidden in his audience room so that I could interpret a person’s real thoughts and intentions from the aura. This was done to see if the person’s speech and thoughts tallied particularly when they were foreign statesmen visiting the Dalai Lama. I was an unseen observer when a Chinese delegation was received by the Great Thirteenth. I was an unseen observer, too, when an Englishman went to see the Dalai Lama, but on the latter occasion I nearly fell down in my duty because of my astonishment at the remarkable dress which the man wore, my first, very first sight of European dress!
Chương trình huấn luyện kéo dài đầy gian khổ. Tại tu viện, các buổi lễ và giờ học mà chúng tôi phải tham dự kéo dài suốt đêm cũng như trong suốt cả ngày, không cho chúng tôi được ngủ yên tĩnh. Chúng tôi cuộn chăn và nằm ngủ trên sàn. Các thầy giáo rất nghiêm khắc, chúng tôi học tập, nghiên cứu và ghi nhớ mọi điều trong óc. Chúng tôi không ghi chép trong sách vở, mà phải đảm bảo ghi nhớ mọi điều. Tôi được đào tạo một cách toàn hảo các môn huyền vi, nghiên cứu sâu về thần nhãn, về sự di chuyển của thể vía, về thần giao cách cảm.
Trong giai đoạn khởi đầu, tôi đã được đến thăm các hang động và đường hầm bí mật bên dưới cung điện Potala, nơi mà những người bình thường không được biết đến. Chúng là những di tích của một nền văn minh lâu đời mà hầu như đã rơi vào quên lãng, và trên các bức vách là những vết tích, nhưng hình vẽ của những vật bay trong không gian, và những vật đi dưới mặt đất. Trong khoảng thời gian khác, tôi nhìn thấy cơ thể những người khổng lồ được bảo quản cẩn thận, một người cao mười thước, người khác cao mười lăm thước. Tôi cũng đã đi qua bên kia cửa tử để biết rằng không có sự chết, và khi tôi trở về dương thế tôi được công nhận là một hóa thân, được mang danh hiệu Sư trưởng. Nhưng tôi không muốn làm hòa thượng, trói buộc vào một lạt ma viện. Tôi muốn trở thành một vị lạt ma, tự do đi đây đó, giúp đỡ mọi người, như lời tiên tri mà tôi đã biết. Vì vậy, tôi được mang danh hiệu Lạt ma theo lệnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và cũng nhờ Ngài, tôi trở nên gắn bó với cung điện Potala. Thậm chí sau đó, tôi được đào tạo tiếp, tôi được dạy nhiều về khoa học phương Tây, về quang học và những chuyên ngành liên quan khác. Nhưng rồi cũng đến lúc tôi được gọi vào nhận lệnh của đức Đạt Lai Lạt Ma.
The training was long and arduous. There were temple services to be attended throughout the night as well as throughout the day. Not for us the softness of beds. We rolled ourselves in our solitary blanket, and went to sleep on the floor. The teachers were strict indeed, and we had to study, and learn, and commit everything to memory. We did not keep notebooks, we committed everything to memory. I learned metaphysical subjects as well. I went deeply into it, clairvoyance, astral travelling, telepathy, I went through the whole lot. In one of my stages of initiation I visited the secret caverns and tunnels beneath the Potala, caverns and tunnels of which the average man knows nothing. They are the relics of an age-old civilization which is almost beyond memory, beyond racial memory almost, and on the walls were the records, pictorial records of things that flew in the air, and things that went beneath the earth. In another stage on initiation I saw the carefully preserved bodies of giants, ten feet, and fifteen feet long. I too, was sent to the other side of death, to know that there is no death, and when I returned I was a Recognised Incarnation, with a rank of an abbot. But I did not want to be an abbot, tied to a lamasery. I wanted to be a lama, free to move about, free to help others, as the Prediction said I would. So, I was confirmed in the rank of lama by the Dalai Lama himself, and by Him I was attached to the Potala in Lhasa. Even then my training continued, I was taught various forms of western science, optics, and other allied subjects. But, at last the time came when I was called once again to the Dalai Lama, and given instructions.
Ngài nói với tôi rằng, tôi đã được học tất cả những gì tôi có thể học ở Tây Tạng, đã đến lúc tôi cần phải lên đường, để lại đằng sau tất cả những gì mà tôi yêu thương, tất cả những gì mà tôi quan tâm. Ngài nói rằng tôi là một sứ giả đặc biệt được gửi đến Trùng Khánh để học về y học và giải phẫu học tại thành phố này của Trung Quốc.
Con tim tôi đau đớn khi bái biệt đấng Thái Tuế, và đến gặp Thầy của tôi, Đức Lạt Ma Minh Gia, để nói với Người về quyết định của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sau đó, tôi đến nhà cha mẹ tôi cũng để nói với họ về những gì đã xảy ra và tôi sẽ rời khỏi Lhasa. Những ngày cuối cùng trôi qua, và rồi ngày lên đường đã đến, tôi rời khỏi tu viện Chakpori, lần cuối cùng nhìn Đại Đức Minh Gia trong thân xác nơi trần thế và tôi đi theo con đường ra khỏi thành phố Lhasa, thành phố linh thiêng, trên đỉnh cao tột của truông núi. Và khi quay đầu nhìn lại phía sau, tôi nhìn thấy một cánh diều đơn chiếc đang bay lượn trên nóc điện Potala.
He told me that I had learned all that I could learn in Tibet, that the time had come for me to move on, to leave all that I loved, all that I cared for. He told me that special messengers had been sent out to Chungking to enroll me as a student of medicine and surgery in that Chinese city.
I was sick at heart when I left the presence of the Inmost one, and made my way to my Guide, the lama Mingyar Dondup, and told him what had been decided. Then I went to the home of my parents to tell them also what had happened, that I was to leave Lhasa. The days flew by, and the final day came when I left Chakpori, when for the last time I saw Mingyar Dondup in the flesh, and I made my way out of the city of Lhasa, the Holy City, on to the high mountain passes. And as I looked back the last thing I saw was a symbol. For from the golden roofs of the Potala a solitary kite was flying.