Tác giả Alan Ereira
Nguyên Phong dịch
Từ ngàn xưa, nhân loại đã có những nền văn minh lớn. Những nền văn minh đã tạo ra những kiến trúc vĩ đại như Kim Tự Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn Lý Trường Thành v..v..Tuy nhiên dù phát triển đến đâu chăng nữa , nền văn minh nào cũng chiụ sự chi phối của luật vô thường , nay còn mai mất, cái gì cực thịnh thì cũng có lúc suy tàn . Lịch sử đã chứng minh điều đó một cách hiển nhiên vì ngày nay không mấy ai nhắc nhở gì đến những nền văn minh cổ xưa đó nữa ngọai trừ những giai đoạn rời rạc, pha trộn nhiều hư cấu khó tin.
Nói đến Kim Tự Tháp , người ta thường nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những Kim Tự Tháp Nam Mỹ , mặc dù tại đây số Kim Tự Tháp còn nhiều hơn , đặc biệt hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn . Có lẽ vì phần lớn Kim Tự Tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát .
Columbia là một quốc gia nằm ở phía Nam Mỹ Châu . Phần lớn lãnh thổ xứ này được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp chưa được khai phá, đặc biệt là các khu rừng quanh rặng Sierra thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay , không mấy ai đặt chân đến. Đối với dân xứ này thì rặng Sierra vẫn được coi là một nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều bí mật . Huyền thọai xứ này nói rằng đó là chỗ ở của những bậc Thần linh , có nhiệm vụ che chở cho nhân loại . Vì đỉnh núi lúc nào cũng bị che phủ bỏi những đám mây mù , thêm vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm nên cây cối mọc chằng chịt , khó có ai có thể vượt rừng đến đó được . Năm 1974 , một phi công bay lạc vào phía đông bắc của rặng Sierra và phát hiện một Kim Tự Tháp rất lớn, tọa lạc giữa rừng . Việc khám phá ra Kim Tự Tháp này đã thúc đẩy nhiều phái đoàn khảo cổ của các quốc gia khác kéo nhau đến đây nghiên cứu . Họ kết luận rằng chiếc Kim Tự Tháp xây bằng đá rất công phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những Kim Tự Tháp khác tại Nam Mỹ; do đó nó thuộc một nền văn minh riêng biệt nào khác chứ không phải nền văn minh Incas hay Maya. Quanh Kim Tự Tháp là một thành phố bỏ hoang với nhũng hệ thống đường sá được lót bằng đá hết sức công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố còn có một hệ thống ống cống thoát nước rất hữu hiệu , chứng tỏ người xưa đã hiểu biết rành rọt về vấn đề vệ sinh . Theo các nhà khảo cổ thì thành phố này đã được xây cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn minh Incas và Maya phát triễn, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở Nam Mỹ . Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như thế nào? Chủng tộc nào đã sống tại đây ? Tại sao họ lại biến mất , không để lại một dấu tích gì trừ chiếc Kim Tự Tháp và hệ thống đường sá tinh vi kia?
Các nhà nghiên cứu nhận xét rằng dù đã trải qua bảy tám ngàn năm mà hệ thống đường sá vẫn còn rất tốt , không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa , bảo trì thì chỉ vài chục năm đã hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm. Dọc theo những con đường lót bằng đá, là những thửa ruộng trồng lúa và khoai , chứng tỏ nền văn minh này chú trọng nhiều về nông nghiệp. Một điểm đặc biệt là mỗi ngã tư đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi những ký hiệu lạ lùng trông như một tấm bản đồ . Bản đồ đường sá hay bản đồ chỉ dẫn điều gì vẫn còn là một câu hỏi lớn. Thông thường các nền văn minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về lịch sử, phong tục ,tập quán , nhưng không hiểu sao tại đây họ không hề tìm thấy một dấu tích đặc biệt gì về nền văn minh này ngoài các tấm bản đồ kỳ lạ kia.
Cách đó không xa ở gần đỉnh núi có một bộ lạc người thiểu số gọi là Kogi sống biệt lập, không giao thiệp với ai. Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là con cháu của những người đã xây dựng lên Kim Tự Tháp và thành phố với đường sá xây bằng đá này, nhưng họ vẫn không biết vì sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn và biến mất, không để lại dấu tích nào ? Vì người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra , không tiếp xúc và giao thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ . Trong khi những bộ lạc quanh vùng thường giao dịch, trao đổi hàng hoá với những người tỉnh thành , thì người Kogi rất thận trọng và kín đáo , rút lên những vùng núi cao , không tiếp xúc với ai , chỉ giới hạn việc giao thiệp với một vài bộ lạc lân cận mà thôi .
Đầu năm nay, ký giả Alan Ereira , phóng viên đài BBC tại Columbia, nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với ai , đã chấp nhận cho anh được phỏng vấn với điều kiện là anh phải đến tham dự buổi Đại Hội Tôn Giáo thế giới tổ chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993 và công bố một bản Thông Điệp của họ. Ký gỉa Areira đã viết: ‘ Đây là một biến cố đặc biệt. Tại sao bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự nhiên họ lại cho phép tôi được phỏng vấn, quay phim ? Họ muốn gì đây ? Tại sao một bộ lạc sống biệt lập trong vùng rừng sâu núi thẳm , không tiếp xúc với thế giới bên ngoài , lại biết có một Đại Hội Tôn Giáo nhóm họp tại Hoa Kỳ để gởi một Thông Điệp ? Một điều may mắn là tuy người Kogi không liên lạc với ai , rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ , nhưng vì họ tiếp xúc giới hạn với vài bộ lạc gần đó , nên chúng tôi đã tìm được một người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để làm công việc thông dịch.’
Phái đoàn của ký giả Ereira gồm 6 người , 2 ký giả, 1 nhân viên y tế và 3 nhân viên thu hình đã lên đường vào đầu năm 1993 . Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo lội suối, họ đã đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra . Đường vào đây phải vượt qua một vực thẳm rất sâu, chỉ có độc một cây cầu treo bện bằng dây thừng bắc ngang qua bờ vực . Được thông báo trước , một phái đoàn Kogi đã ra đón tiếp trước bờ vực .
Khác với những bộ lạc thiểu số sống trong vùng thường ít mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều mặc quần áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm . Một người lớn tuổi đã bắt đầu bằng một bài diễn văn ngắn :
“ Chúng tôi là những trưởng lão của dân Kogi , chúng tôi chấp thuận cho phép các ông được đặt chân vào đây trong ba ngày . Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đàu tiên và có lẽ cũng là lần cuối các ông được phép đến đây. Hiển nhiên việc này đã được Hội Đồng Trưởng Lão thảo luận rất kỹ và đồng ý. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ , một giống dân đã có mặt trên trái đất này từ lâu lắm rồi , trước khi tổ tiên các ông ra đời . Vì chúng tôi có mặt từ trước , chúng tôi tự coi mình là những người anh lớn trong đại gia đình nhân loại , do đó chúng tôi là anh và các ông là em . Theo lệ thường trong gia đình , người anh thay mặt Mẹ Cha để giáo dục, dạy dỗ các em , nhưng chúng tôi biết rằng các em còn trẻ quá, còn hung hăng quá, còn cứng đầu, cứng cổ ngang bướng quá, chưa thể học hỏi được gì , nên trải qua mấy ngàn năm nay , chúng tôi, những người anh, đã quyết định giữ thái độ im lặng . Chúng tôi hy vọng theo thời gian , các em sẽ hiểu biết hơn, trưởng thành hơn và học hỏi được qua những lỗi lầm đã tạo . Tiếc thay thời gian quá nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được gì lại còn tiếp tục phá họai gia tài Mẹ Cha để lại , do đó, những người anh lớn bắt buộc phải lên tiếng . Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi cho phép các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi, một nếp sống truyền thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm không thay đổi . Các ông được tự do nghiên cứu, ghi nhận, quay phim , chụp hình và làm tất cả những gì cần thiết , và sau đó chúng tôi có một Thông Điệp muốn gởi cho thế giới bên ngoài” .