Chương 10: Ba kiếp sống – Lobsang Rampa

ba kiếp sống

Vị tu sĩ già đau đớn đứng dậy và phủi chiếc áo choàng bạc màu của mình. Ông thương hại nhìn người đàn ông đang lúi húi trèo qua hàng rào ngăn cách sân tu viện với lối đi công cộng. Người đàn ông dường như cảm thấy vị tu sĩ đang nhìn mình. Anh ta quay lại, dừng ở giữa hàng rào và càu nhàu, ‘Cyrus Bollywugger, ông già ạ, tên tôi đó; một phóng viên chuyên viết phóng sự. Nếu ông muốn làm gì, hãy gọi luật sư đi.’ Vị tu sĩ chậm rãi đi đến một tảng đá và ngồi xuống với một tiếng thở dài nặng nề. 

The old monk painfully rose from the ground and dusted his faded robes. He looked with compassion at the hulking man climbing back over the fence separating the monastery ground from the public parkway. The man seemed to feel that the monk was looking at him. He turned around and stopped halfway across the fence and growled, ‘Cyrus Bollywugger, bud, that’s me; top feature writer. If you want to make something of it, get a lawyer.’ The monk walked slowly to a rock and sat down with a heavy sigh.

Thật là một điều kỳ lạ, ông nghĩ mình, một tu sĩ có tuổi, chỉ đang đi dạo trong khu vườn của tu viện suốt năm mươi năm qua và mặc cho tất cả các biển báo chỉ ra rằng đó là khu vực riêng tư, anh chàng thô lỗ kia vẫn trèo vào và bất chấp sự phản đối của vị tu sĩ, anh ta vẫn đến gần và thúc mạnh vào ngực ông bằng ngón trỏ thô kệch của mình: ‘Cho tôi biết bí mật đi, ông lão, có bí mật nào trong chuyện này không? Tất cả các ông là người đồng tính, hả? Chà, đối với tôi, ông trông không giống người đồng tính chút nào, nhưng hãy cho thế giới biết về bí mật này đi, tôi đang phải viết một bài báo.’ 

What a strange thing it was, he thought, he, an elderly monk, just walking in the garden of his monastic home for the last fifty years and in spite of all the signs saying it was private property this coarse, crude fellow had come clambering over, and in spite of the monk’s protestations had come up to him and prodded him in the chest with a thick forefinger: ‘Give us the low-down, bud, what gives in this ‘ere joint? You’re all a lot of gays, eh? Well, you don’t look too gay to me, but give us the low-down, I gotta write an article.’

V Vị tu sĩ già nhìn người đàn ông từ đầu đến chân và tỏ ra vô cùng khinh bỉ, thật không tốt khi làm như vậy, nhưng gã này chắc chắn đã đi quá giới hạn. Người anh em cao niên Arnold ở đây đã nhiều năm, ông gia nhập từ khi còn là một đứa trẻ và sống ở đây kể từ đó, ông luôn cố gắng kết nối giữa những lời trong Kinh Thánh với những gì ông cảm thấy là đúng và sai. Ông đã tự vấn chính mình về tất cả mọi thứ như là một thói quen của ông. Ông không thể mặc nhiên coi mọi thứ đã viết trong Kinh Thánh là chân lý được. Trước đây đôi khi ông đã nói vài điều băn khoăn với Tu viện trưởng, nghĩ rằng Tu Viện trưởng sẽ giúp ông giải đáp những thắc mắc của mình và khai trí cho ông, nhưng không, Tu Viện trưởng đã nổi cơn thịnh nộ và Người anh em cao niên Arnold đã phải trả giá cả tuần. Hình phạt là phải rửa tất cả chén bát cho cả tu viện.

 

The old monk had looked the man up and down with rather more contempt than he thought he should have shown, it was not good to be so contemptuous of one’s fellow man, but this one surely was beyond the limit. Old Brother Arnold had been here for years, he had entered as a boy and lived here ever since trying to reconcile the words of the Bible with what he felt to be right and wrong. He had been discussing with himself as was his wont what it was all about. He could not take everything as the literal truth which was in the Bible; some time ago he had voiced certain doubts to the Abbot, thinking that the Abbot would help him to resolve his doubts and clear his mind but no, the Abbot had flown into a furious rage and old Brother Arnold had penances for a whole week. Penances washing all the dishes for the monastery. 

Khi đó, cũng như bây giờ, sau khi bị tấn công bởi con người thô bạo của truyền thông này, ông đã lặp đi lặp lại một lời cầu nguyện với chính mình: ‘Lạy Chúa xót thương, xin đừng để điều này trở thành hiện thực.’ Điều đó giúp ông bình tĩnh, khiến ông có thể nhìn mọi thứ theo cách trừu tượng.

Then, as now, after being assaulted by this crude media yokel, he had repeated one prayer to himself over and over: ‘Lord, in Thy Mercy let nothing come too close nor seem too real.’ It calmed him, enabled him to gaze on things in an abstract manner. 

Ông đi loanh quanh và nghĩ về cuộc sống đã qua của mình. Có nhiều việc phải làm vào buổi sáng và nghiên cứu vào buổi chiều, và có rất nhiều điều cần phải làm sáng tỏ. Các bức tranh ngày nay thật là tệ, toàn những thứ bằng nhựa, những loại sơn kém chất lượng, và kể cả giấy vẽ từ da dê, thôi càng ít nói về loại giấy đó thì càng tốt. Để làm chao đèn thì có thể được nhưng để làm những tuyệt phẩm như ông đã thấy thì chúng có vẻ vô dụng. Và rồi sau khi kết thúc công việc buổi chiều, tiếp theo sẽ là gì? Ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác và năm này qua năm khác, vẫn là các buổi Kinh Chiều và sau đó là bữa tối  trong sự tĩnh lặng cô quạnh, và sau bữa ăn cuối trong ngày, là phải hoàn thành giờ kinh thứ bảy. Sau đó là đối diện với một gian phòng kín cô độc, lạnh lẽo và hiu hắt, với chiếc giường cứng, chật hẹp và cây Thánh giá không thể thiếu ở đầu giường, một căn phòng nhỏ đến mức ngay cả một tên tội phạm trong nhà tù cũng phải phản đối điều kiện đó.

He had been wandering around thinking of his past life. There was the work in the mornings and the study in the afternoons, and so much so much Illuminating to do. The paints nowadays were poor, plastic things, awful paints, and the vellum well, least said about the vellum the better. It might be all right for lampshades but for the top grade Illumination for which he was noted modern supplies were useless. And then after the afternoon duties, what was there? The same day after day, week after week, month after month and year after year, the Vespers and then supper in solitary silence, and after supper Compline, the completion of the seventh canonical hour. After that the lonely cell, cold and draughty, with a hard, narrow bed and the inevitable Crucifix at the head of the bed, a cell so small that even a convict in a prison would have gone on strike under such conditions.

Ông cứ đi loanh quanh và mải nghĩ về điều đó, và rồi cái gã thô thiển kia xông vào nơi tôn nghiêm riêng tư này, dúi vào ngực ông, yêu cầu ông già phải cho hắn ta một bài báo nhạy cảm. Đồng tính ư? Chúa ơi, không! Các tu sĩ không phải là người đồng tính, họ nhìn những người đồng tính luyến ái với một lòng trắc ẩn nhất định nhưng hoàn toàn không biết gì về điều đó. Ông vẫn giữ vững lập trường và yêu cầu Cyrus Bollywugger rời đi. Tay nhà báo mất bình tĩnh, gã dõng dạc nói về sức mạnh của truyền thông khi cho rằng với ngòi bút của mình, gã có thể phá hủy danh tiếng của tu viện, và khi vị tu sĩ đứng im trầm ngâm suy nghĩ, Cyrus Bollywugger đã bất ngờ giơ một nắm đấm to bằng kích cỡ một con chuột hamster thúc mạnh vào ngực ông, làm ông ngã xuống. Ông nằm đó bàng hoàng tự hỏi nhân loại ngày nay vô cảm như thế sao, tại sao một gã thô kệch to khỏe như thế này lại tấn công một ông già yếu đuối sắp gần đất xa trời? Ông không thể hiểu nổi. Ông nằm đó một lúc, rồi một cách chậm chạp và đau đớn ông đứng dậy trên đôi chân run rẩy và lảo đảo ngồi lên kệ để lấy lại thăng bằng và bình tĩnh.

He had been walking around thinking of that, and then this crude oaf had burst in to the private sanctuary, poking him in the chest, demanding that the old man should give him a sensational article. Gays? Good heavens no! Monks were not gays, they looked upon homosexuals with a certain amount of compassion but with a total lack of understanding. The old man had stood his ground and ordered Cyrus Bollywugger off. The man had lost his temper, he had ranted on about the power of the press saying that with his pen he could destroy the reputation of the monastery, and as the monk stood silent in his inner contemplation Cyrus Bollywugger had suddenly raised a fist the size of a ham and struck the old man heavily in the chest, knocking him down. He lay there in a daze wondering what ailed mankind nowadays, why should a hulking lout like this strike a frail old man almost at the end of his life? He could not under stand it. He lay there for a time, then slowly, painfully he climbed on shaky legs to his unsteady feet and tottered to sit on a rack and to regain his equilibrium and com posure.

Vừa hét lên đầy dọa dẫm, Bollywugger cuối cùng cũng nhảy ra khỏi hàng rào và rơi xuống mặt đất ở phía bên kia, gã di chuyển với dáng đi nhanh nhẹn gợi đến hình ảnh một con khỉ đột say xỉn hơn là một giống Người tinh khôn. 

Yelling threats of ‘Exposure’ Bollywugger finally jumped off the fence and dropped to the ground on the other side, moving off with a rapid shambling gait reminiscent of an inebriated gorilla rather than a specimen of Homo sapiens. 

Tu sĩ Arnold ngồi đó cạnh bờ biển lấp lánh, nhìn ra xa với đôi mắt vô hồn, với đôi tai như điếc không nhận thức được thực tế với đầy rẫy tiếng la hét của những người vui đùa trên bãi biển công cộng, những đứa trẻ hò hét, cãi vã ầm ĩ và cả những tiếng gào chói tai chửi rủa của những người đàn ông. Cuối cùng thì ông già Arnold giật bắn mình; một bàn tay đặt lên vai ông, một giọng nói cất lên: ‘Cha có điều gì phiền não thế?’ Ông nhìn lên và thấy một đạo hữu bằng tuổi đang nhìn mình, đôi mắt nâu đầy lo lắng.

Brother Arnold sat there beside the sparkling sea, gazing out with unseeing eyes, with ears untroubled, hardly perceiving in fact the shouts and yells of merrymakers on the public beach, children screaming and quarrelling and shrill-voiced harridans cursing their men for some imagined slight. At last old Arnold jumped; a hand had descended on his shoulder, a voice said, ‘What ails you my brother?’ He looked up to find another Brother of equal age gazing down upon him, concern in his brown eyes.

  ‘Tôi bị một nhà báo xúc phạm, hắn đã nhảy qua hàng rào và đấm vào ngực tôi.’ Cha Arnold nói. ‘Hắn đòi tôi phải nói với hắn rằng tất cả chúng ta ở trong tu viện này đều là đồng tính, và khi tôi phủ nhận điều đó một cách gay gắt thì tại sao hắn lại đấm vào ngực tôi khiến tôi ngã xuống đất! Kể từ lúc đó tôi cảm thấy không được khỏe và tôi phải nghỉ ngơi một lúc. Nhưng đi nào, chúng ta hãy trở về tu viện thôi.’ Ông khó nhọc đứng dậy, và một cách chậm chạp hai ông già đã từng là đạo hữu trong tu viện rất nhiều năm qua dạo bước trên con đường hướng về tòa nhà lớn vốn là ngôi nhà của họ.

 ‘I have been insulted by a pressman who burst over our fence and struck me in the chest,’ said Brother Arnold. ‘He demanded that I tell him that we were all gays homosexuals in this monastery, and when I denied that with some acerbity why he struck me in the chest and knocked me to the ground! Since then I have felt unwell, and I had to rest awhile. But come, let us return to the house.’ Stiffly he rose to his feet, and slowly the two old men who had been Brothers in the monastery for many, many years wandered up the path toward the great building that was their home. 

Đêm đó sau buổi cầu nguyện cuối trong ngày, khi các tu sĩ đã về phòng mình, Cha Arnold thấy rất đau, ông cảm giác ngực mình như bị những ngọn giáo nóng xuyên thấu. Ông dùng một chiếc dép và đập mạnh vào bức tường của căn phòng. Có tiếng sột soạt và một giọng nói vang lên từ bên ngoài cửa, ‘Có chuyện gì vậy? Cha bị ốm à?’ Cha Arnold đáp với giọng yếu ớt, ‘Vâng, Cha vui lòng hỏi Cha Infirmarian xem liệu ông ấy có thể đến khám giúp tôi được không?’

That night after Compline when the monks were in their cells Brother Arnold felt considerable pain, he felt that his chest was being penetrated with hot spears. Feebly he used a sandal and banged upon the wall of his cell. There was a rustle and a voice came from outside his door, ‘What is it, Brother? Are you ill?’ Brother Arnold replied in a feeble voice, ‘Yes Brother, will you ask Father Infirmarian if he can come and see me?’

Có tiếng lẩm bẩm và tiếng dép lê trên sàn đá. Cha Arnold nghĩ thầm, thật lạ, không một tu sĩ nào có thể vào phòng tu sĩ khác, cho dù có vì một mục đích trong sáng nhất, không ai khác ngoại trừ Cha Infirmarian có thể vào chỉ để thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh của mình. Có điều gì ở trong đó? Một số tu sĩ đồng tính chăng? Ông nghĩ cũng có thể. Chắc chắn các nhà kiểm duyệt có đủ luật lệ và quy định để chắc chắn rằng không có hai tu sĩ nào được ở cùng nhau và họ chỉ có thể đi cùng nhau khi có ba người. Cha Arnold nằm trên giường vì đau đớn và suy nghĩ về vấn đề này cho đến khi bị đánh động bởi cánh cửa phòng mở ra và một giọng nói nhẹ nhàng hỏi, ‘Arnold, Cha bị bệnh gì thế?’ Rồi Arnold kể về câu chuyện hồi chiều, về cú đánh vào ngực và về cú ngã. Cha Infirmarian từng là một Tiến sĩ Y khoa có trình độ chuyên môn cao, người đã từ bỏ việc hành nghề y trong nỗi chán chường, không tham gia vào bất kì cuộc thi nào mang hơi hướng ‘khoa học’ y tế của thời đại hiện nay. Cha cẩn thận mở áo của Arnold ra và kiểm tra ngực của ông, giờ nó màu đen, xanh và vàng, và rồi đôi mắt dày dặn kinh nghiệm của ông phát hiện ra Arnold bị gãy một số xương sườn. Cẩn thận khép áo che ngực cho ông già, cha đứng dậy và nói: ‘Tôi phải đến gặp Cha Bề trên và báo cáo về việc này, Cha Arnold, Cha bị gãy xương, Cha cần chụp X-quang và cần điều trị tại bệnh viện.’ Nói rồi ông ta im lặng quay đi.

There was a muttered acknowledgement and the sound of shuffling sandals upon the stone floor. It was strange, thought Brother Arnold, that no one monk could enter the cell of another monk, not even from the purest motives, none other except Father Infirmarian could enter and then only in the pursuit of his medical duties. Was there something in it? Are some monks homosexual? Possibly they may be, he thought. Certainly the authorities had enough rules and regulations to make sure that no two monks were together and they could only go about in three’s. Brother Arnold lay upon his bed of pain and thought about the matter until he was roused by the opening of his cell door and a gentle voice asking, ‘Brother Arnold, what ails you?’ And so Brother Arnold told of the events of the afternoon, told of the blow upon his chest and of the falling. Father Infirmarian had been a fully qualified Doctor of Medicine who had given up the practice of medicine in disgust, not being able any longer to take part in the various rackets which pervaded medical ‘science’ of the present age. Carefully he parted Brother Arnold’s clothing and examined his chest which now was black and blue and yellow, and then his trained eyes picked out Brother Arnold had some broken ribs. Carefully he recovered the old man’s chest, rose to his feet and said, ‘I must go to Father Superior and give a report on this, Brother Arnold, you have broken bones, you need X-ray and you need hospital treatment.’ With that he turned and went out silently. 

Ngay sau đó, có thêm tiếng chân người và một giọng nói rất trầm ở bên ngoài hành lang. Cửa phòng được mở ra, Cha Infirmarian và Cha Bề trên bước vào, nhìn xuống ông lão. ‘Cha Arnold,’ Cha Bề trên nói, ‘Cha sẽ phải đi bệnh viện để chụp X-quang, xương sườn cần phải sắp xếp lại và bó bột. Tôi sẽ đi báo tin cho Tu viện trưởng để ngài có những thu xếp cần thiết. Trong lúc này Cha Infirmarian sẽ ở lại đây để giúp Cha trong trường hợp cần thiết.’ Cha Bề trên quay đi định rời phòng nhưng Arnold đã khóc,  ‘Không, thưa Tu viện phó, thưa Cha Bề trên, tôi không muốn đi bệnh viện, Tôi đã nghe rất nhiều về sự tắc trách ở đó và tôi thà được Cha Infirmarian chữa trị còn hơn, và nếu bệnh của tôi vượt quá khả năng của Cha ấy thì tôi nguyện đem linh hồn mình đến với Chúa.’

‘Không, điều đó không được, Cha Arnold à, tôi không thể chấp nhận điều đó. Chỉ có Tu viện trưởng mới có thể phân định được trường hợp này, tôi sẽ đến gặp ông ấy,’ Cha Bề trên nói khi rời phòng. ‘Không, điều đó sẽ không làm được Cha Arnold, tôi không thể chấp nhận điều đó.’

Soon there came more shuffling noises and very low-toned voices in the corridor outside. His door was opened and Father Infirmarian and Father Superior entered and looked down upon him. ‘Brother Arnold,’ said the Superior, ‘you will have to go to hospital to be X-rayed and to have your ribs set and put in a cast. I will go and inform Father Abbot so that he may make the necessary arrangements. In the meantime Father Infirmarian will stay with you here in case he can do anything for you.’ The Superior turned to leave the cell but Brother Arnold cried, ‘No, Father Subprior, no Father Superior, I do not want to go to hospital, I have heard so much of the malpractice there and I would rather be treated by Father Infirmarian, and if I am beyond his capacity then I will commend my soul to God.’

‘No, that will not do Brother Arnold, I cannot accept that. Only Father Abbot can make a dispensation on this case, I will go to see him,’ said the Superior as he left the cell.

Cha Infirmarian chỉ có thể làm được điều nhỏ nhoi để giúp vị đạo hữu cao niên, cha làm ẩm một miếng vải và lau trán cho ông lão để cố gắng hạ bớt phần nào cơn sốt. Một lần nữa, cha cởi áo của Cha Arnold để thậm chí sức nặng của nó không gây thêm khó chịu cho ông. Họ ngồi cùng nhau vì ông lão bây giờ đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, tư thế này giúp ông dễ thở hơn.

There was little Father Infirmarian could do to help the aged Brother, but he moistened a cloth and wiped the old man’s brow to try to reduce the fever somewhat. Again he undid Brother Arnold’s vestments so that not even that weight should cause further difficulty. Together they sat for the old man was half sitting in his bed now, it being easier for him to breathe in that posture. 

Chẳng bao lâu sau lại có tiếng bước chân. Cửa phòng mở ra và Tu viện trưởng bước vào. Cha Bề trên phải đợi bên ngoài vì căn phòng nhỏ đến mức không thể chứa quá hai người khi một người ở trên giường. Tu viện trưởng đến và nhìn xuống Cha Arnold với nét mặt sợ hãi và sốc trước tình trạng ngực của ông lão. Có tiếng thì thầm thảo luận giữa Tu viện trưởng và Cha Infirmarian, và sau đó Tu viện trưởng quay sang Cha Arnold nói, ‘Cha Arnold, tôi không thể nhận trách nhiệm để Cha ở lại đây trong tình trạng này được. Cha cần phải nhập viện.’ Ông dừng lại một lúc, mấy ngón tay kéo môi dưới xuống và đăm chiêu suy nghĩ. Một lúc sau, ông nhìn Cha Arnold lần nữa và nói, ‘Cha Arnold, theo bệnh tình của Cha, với tuổi của Cha, nếu Cha muốn, tôi sẽ điện thoại cho Đức Giám mục và khi đó chúng tôi sẽ nghe theo chỉ đạo của ông ấy.’

Soon there came footsteps again. The cell door opened and in came Father Abbot. The Superior had to wait outside for the cells were so small that they could not take more than two people when one was on a bed. Father Abbot came and looked down at Brother Arnold and his face showed horror and shock at the state of the old man’s chest. There was a low-voiced discussion between Father Abbot and Father Infirmarian, and then the Abbot turned to Brother Arnold saying, ‘I cannot accept the responsibility, Brother Arnold, of keeping you here in this condition. You will have to go to hospital.’ He stopped for a moment and pursed his lower lip between finger and thumb in deep thought. After some moments he looked at Brother Arnold again and said, ‘In view of your condition, in view of your age, I will if you wish, Brother Arnold, telephone for the Bishop and then we can only accept his ruling.’

‘Tôi rất ghét phải rời khỏi đây, đây là nhà của tôi, vì những hiểm họa khôn lường ở các bệnh viện ngày nay. Tôi đã nghe rất nhiều điều tiêu cực về họ đến nỗi tôi không có lòng tin, và không có lòng tin thì tôi sẽ không nhận được gì cả từ việc điều trị của họ. Tôi đặt toàn bộ niềm tin của tôi vào Cha Infirmarian.’

Tu viện trưởng nói: ‘Cha sẽ được như ý, Cha Arnold, đáng lẽ tôi không nên nói thế khi nghe Cha nói, nhưng tôi không thể không đồng ý với Cha.’

‘I am very loathe to leave this, my home, for the unknown perils of hospitals as they are of this day. I have heard so much against them that I have no confidence, and without confidence I should not benefit from their treatment. My whole faith is with Father Infirmarian.’

‘As you will, Brother Arnold,’ said Father Abbot, ‘I should not say this in your hearing but I cannot help agreeing with you.’

Tu viện trưởng rời phòng và ngài cùng Cha Bề trên đi về phía văn phòng của Tu viện trưởng, nơi vài phút sau ông có thể nghe tiếng nói chuyện điện thoại đến Đức Giám mục Giáo phận nơi tu viện tọa lạc. Có tiếng lặp đi lặp lại, ‘Sẽ như lời Ngài, thưa Đức Giám mục, sẽ như lời Ngài. Vâng, tôi sẽ làm vậy, tạm biệt,’ và rồi có tiếng gác máy.

The Abbot left the cell and he and the Superior went away toward the Abbot’s office where minutes after he could be heard telephoning the Bishop of the Diocese in which the monastery was located. There were frequent, ‘as you say, Father Bishop, as you say. Yes, I will do that, goodbye,’ and there was the sound of the telephone being replaced on its cradle.

Tu viện trưởng ngồi im lặng một lúc và rồi đột ngột quyết định, ngài đã cử một Thư ký đến để ghi chép và chuẩn bị một loại giấy tờ mà Cha Arnold sẽ phải ký vào nói rằng nếu ông từ chối rời tu viện để đi bệnh viện thì ông phải chịu trách nhiệm về điều đó, và tu viện không thể chịu trách nhiệm cho bất cứ điều gì xảy ra do quyết định đó.

Father Abbot sat in silence for a while and then, upon a sudden decision, he sent for a Scribe who came to take dictation and to prepare a paper which Brother Arnold would have to sign saying that if he refused to leave the monastery for a hospital he did so upon his own responsibility, and the monastery could not be held responsible for whatever occurred as a result of that decision.

Tu viện ánh lên màu trắng lạnh lẽo trong ánh sáng rực rỡ của trăng tròn. Những đám mây nhẹ lướt qua mặt trăng bằng cách nào đó đã mang lại một bầu không khí bí hiểm cho tòa nhà tu viện. Ánh trăng phản chiếu lấp lánh từ nhiều ô cửa sổ và dường như chớp chớp với những đám mây khi chúng lướt qua. Đâu đó, một con cú đêm kêu inh ỏi trong bóng tối, gần đó là tiếng sóng rì rào vỗ vào bờ cát, trườn lên cao rồi lại lui về tạo thành đợt sóng tiếp theo. Trong tu viện, tất cả đều im lặng, im lặng như thể cả tòa nhà biết rằng cái chết đang ở trong tầm tay, như thể nó đang chờ đợi sự vỗ cánh của Tử thần. Thỉnh thoảng lại có những âm thanh kỳ lạ vang lên trong một tòa nhà cũ kỹ như đang cảm thấy sức nặng của năm tháng. Có tiếng sột soạt của những bàn chân chuột nhắt chạy trên sàn nhà bóng loáng, và đôi khi là tiếng kêu sợ hãi từ một con chuột. Nhưng tòa nhà vẫn tĩnh lặng và yên ắng như nó vốn dĩ như vậy. Rồi từ tháp đồng hồ, tiếng chuông điểm giờ vang lên trên khắp vùng quê. Từ đằng xa có tiếng gầm rú của một đoàn tàu đang chạy trên đường sắt về phía thủ đô.

The monastery gleamed cold and white in the brilliant light of the full moon. Light scurrying clouds hurrying across the face of the moon somehow lent a sinister air to the monastic building. Moonlight reflecting brightly from the many windows glittered and seemed to wink at the clouds as they scudded by. Somewhere, a night owl called loudly in the darkness, nearby there was the gentle hiss of waves lapping the sand, reaching up higher and withdrawing to form the next wave. In the monastery itself all was quiet, hushed as though even the building knew that death was at hand, as if it were waiting for the beating of the wings of the Angel of Death. Occasionally there came all those strange sounds which occur in an old, old building which is feeling the weight of the years. Every so often there came the scurrying pit-a-pat of little mouse feet running across the polished floors, and sometimes a frightened squeak from a mouse. But the building was still and as silent as an old building can ever be. Then from the clock tower the hours rang out across the listening countryside. From the distance there came the roar of a train speeding along on its iron rails toward the metropolis.

Cha Arnold nằm trên giường đau đớn. Dưới ánh sáng lung linh của ngọn nến, ông có thể thấy Cha Infirmarian đang nhìn mình đầy thương cảm. Bất ngờ, quá bất ngờ đến mức khiến Cha Arnold giật bắn mình, Cha Infirmarian nói: ‘Cha Arnold, chúng tôi rất quan tâm đến Cha, đến tương lai của Cha. Đôi khi Cha có những niềm tin quá khác với những niềm tin của tôn giáo chính thống. Cha dường như nghĩ rằng điều Cha tin là gì không quan trọng miễn là Cha tin tưởng. Cha Arnold, ở thời khắc cuối này, hãy ăn năn và xưng tội. Tôi có nên gọi Cha rửa tội cho Cha không, Cha Arnold?’

Brother Arnold lay upon his bed of pain. By the light of the flickering candle he could see Father Infirmarian gazing upon him with compassion. Suddenly, so suddenly as to make Brother Arnold jump, Father Infirmarian spoke: ‘Brother Arnold, we have been so concerned about you, about your future. Sometimes you have beliefs which are so different from those of the orthodox religion. You seem to think it doesn’t matter what you believe so long as you believe. Brother Arnold, at this late stage repent, repent let your shriving take place. Shall I call the Father Confessor for you, Brother Arnold ?’

Cha Arnold nhìn quanh và nói: ‘Cha Infirmarian, tôi hài lòng với cách sống của mình, tôi đi đến nơi mà tôi tin rằng sẽ là Thiên đường, đi theo niềm tin của chính mình, không nhất thiết là niềm tin theo sách vở. Tôi tin rằng tôn giáo của chúng ta, tôn giáo chính thống, rất hạn hẹp trong quan niệm của nó.’ Ông thở hổn hển khi cơn đau đang cắn xé khắp cơ thể, ông cảm thấy lồng ngực nóng như lửa đốt, cảm thấy như thể những chiếc đinh đang đâm vào ngực, và ông đã liên tưởng đến những chiếc đinh đóng vào tay chân Đức Chúa, ông nghĩ đến sự đau đớn của những cú đâm vào người do người canh giữ bên dưới Cây Thánh Giá gây ra.

Brother Arnold looked about him and said, ‘Father Infirmarian, I am satisfied with my way of life, I go to what I believe will be Heaven, I go according to my own belief, not necessarily a belief according to the book. I believe that our prescribed religion, the orthodox religion, is narrow in its concepts.’ He gasped as pain wracked his body, he felt as though his chest was on fire, he felt as though nails were being driven through his chest, and he thought of the nails driven through the hands and the feet of Christ, he thought of the pain of the thrust in the body caused by the guard below the Crucifix.

‘Cha Infirmarian, Cha Infirmarian,’ ông gọi, ‘Cha sẽ đưa cho tôi cây Thánh giá để tôi có thể hôn vào Năm vết thương chứ?’

Cha Infirmarian từ từ đứng dậy và tiến đến bên đầu giường của Cha Arnold. Nhoài người với tay, ông chạm vào Cây Thánh Giá, nhấc nó xuống và áp nó vào môi Cha Arnold.

‘Father Infirmarian, Father Infirmarian,’ he called, ‘will you pass me the Crucifix that I may kiss the Five Wounds?’

Slowly Father Infirmarian rose to his feet and moved to the head of Brother Arnold’s bed. Reaching up, after crossing himself, he touched the Crucifix, lifted it down, and pressed it to Brother Arnold’s lips.

‘Cha Infirmarian, Cha Infirmarian,’ Arnold kêu lên trong đau khổ và kinh ngạc, ‘tất cả những người đang đứng quanh tôi là ai vậy? À, tôi biết rồi, đây là mẹ tôi, bà đến để chào mừng tôi đến với Thực Tại Vĩnh Hằng, đến Sự Sống Vĩ đại hơn. Mẹ tôi ở đây, bố tôi ở đây, rất nhiều bạn bè của tôi cũng ở đây.’ Rất nhanh, Cha Infirmarian đứng dậy đi ra cửa và đột ngột đập mạnh vào cánh cửa của phòng bên cạnh. Có tiếng thốt lên giật mình từ bên trong và gần như ngay lập tức một tu sĩ cạo trọc xuất hiện quanh ô cửa đang mở. 

‘Nhanh lên, nhanh lên!’ Cha Infirmarian nói, ‘Gọi cho Tu viện trưởng đi. Cha Arnold sắp rời xa chúng ta rồi.’

‘Father Infirmarian, Father Infirmarian,’ cried Arnold in anguish and amazement, ‘who are all these people who have gathered about me? Ah, I see, here is my mother, she is come to bid me welcome to the Greater Reality, the Greater Life. My mother is here, my father is here, many friends of mine are here too.’ Very quickly Father Infirmarian rose to his feet, moved to the door and rapped suddenly and sharply on the door of the next cell. There was a startled exclamation from within and almost on the instant a shaven headed monk appeared around the opening door.

 ‘Quick, quick!’ said Father Infirmarian, ‘Call Father Abbot. Brother Arnold is about to leave us.’

Vị Tu sĩ kia không kịp mặc áo choàng, cũng không mang dép, anh ta phóng nhanh dọc hành lang và nhảy xuống cầu thang. Chẳng bao lâu sau, anh ta trở lại cùng với Tu viện trưởng, người đang ngồi chờ một mình trong phòng làm việc của ông.

The monk stopped not to don a robe nor to put on his sandals, he sped down the corridor and leapt down the stairs. Soon he returned following Father Abbot who had been waiting alone in his study.

Cha Arnold nhìn ông ta một cách hoang dại, và kêu lên trong đau khổ, ‘Tại sao chúng ta – những người truyền bá tôn giáo lại sợ chết? Tại sao vậy, thưa Cha Tu viện trưởng, tại sao chúng ta lại sợ chết đến vậy?’ Một câu trả lời xuất hiện trong đầu của Cha Arnold: ‘Arnold, ông sẽ biết được điều đó khi ông đến với chúng tôi ở thế giới bên kia. Ông sẽ sớm đến đó thôi.’

Brother Arnold looked about him wildly, and exclaimed in anguish, ‘Why is it that we who preach religion are afraid to die? Why is it, Father Abbot, why is it that we are so afraid to die?’ An answer appeared in Brother Arnold’s brain: ‘You will learn that, Arnold, when you come to us on the Other Side of life. You will be coming shortly.’

Tu viện trưởng quỳ bên giường, giơ cao cây Thánh giá trong tay. Ông cầu nguyện. Ông cầu xin lòng thương xót cho linh hồn của Cha Arnold, người thường xuyên không tuân thủ những lễ nghi tôn giáo. Bên cạnh chiếc giường, ngọn nến lập lòe bỗng sáng rực lên rồi lụi dần, một cơn gió thoảng qua đã bắt lấy ngọn lửa và biến nó thành than đen. Nó bùng lên một lần nữa và dưới ánh sáng của ngọn nến đơn độc đó, họ thấy Cha Arnold ngồi dậy và khóc, ‘Nunc Dimitis, Nunc Dimitis, Chúa ơi, bây giờ tôi tớ Ngài đã để yên cho con ra đi theo lời Ngài.’

The Father Abbot knelt beside the bed holding the Crucifix in his upraised hands. He prayed. He prayed for mercy upon the soul of Brother Arnold who had so often departed from the prescribed script of religion. Beside the bed the guttering candle flared and went low, a vagrant breeze caught the flame and turned it into black carbon. It flared again and in the light of that lone candle they saw Brother Arnold raise up crying, ‘Nunc Dimitis, Nunc Dimitis, Lord now lettest Thou Thy servant depart in peace according to Thy word.’

Nói xong ông rên rỉ và ngã xuống gối bất tỉnh. 

Cha Infirmarian làm dấu thánh giá và đọc bài cầu nguyện Vượt qua cái chết. Sau đó, với tay qua đầu của Tu viện trưởng, người vẫn đang quỳ gối, Cha Infirmarian vuốt mắt Cha Arnold và đặt những miếng đệm nhỏ lên trên để giữ cho chúng nhắm lại. Ông ta đặt một dải băng bên dưới hàm dưới giúp cái miệng đang há ngậm lại. Sau đó, ông buộc dải băng trên đỉnh đầu cạo trọc của Cha Arnold. Ông cẩn thận nâng đầu và vai của người tu sĩ đã chết lên và bỏ chiếc gối ra ngoài. Ông cầm lấy tay Cha Arnold và bắt chéo chúng trước ngực. Ông lùi xuống làm các thủ tục lau chùi cần thiết, và sau đó kéo tấm khăn trải giường trùm lên khuôn mặt đã chết của Đạo hữu Arnold. 

With that he groaned and fell back lifeless against the pillows.

Father Infirmarian crossed himself and said a prayer for the Passing of the Dead. Then reaching over the head of the Father Abbot who was still upon his knees Father Infirmar ian closed the eyes of Brother Arnold and put little pads upon them to keep them closed. He put a band beneath the lower jaw and held the gaping mouth shut. Then he tied the band on the top of Brother Arnold’s tonsured head. Carefully he raised the dead monk’s head and shoulders and removed the pillows. He took Brother Arnold’s hands and crossed them upon his breast. Lower he attended to the necessary toilet, and then the sheet was pulled up over Brother Arnold’s dead face.

Tu viện trưởng chậm chạp đứng dậy và ra khỏi căn phòng lạnh lẽo, đến văn phòng riêng của mình và chỉ đạo cho một tu sĩ. Vài phút sau, tiếng chuông vang lên để báo hiệu việc chuyển giao từ sự sống sang cái chết. Các tu sĩ lặng lẽ rời khỏi giường, mặc áo choàng và xếp hàng đi xuống Nhà nguyện để làm lễ cho Người chết. Sau đó khi mặt trời mọc phía trên đường chân trời sẽ có hàng đoàn, hàng đoàn người tham dự, và khi đó thi thể của Cha Arnold được quấn trong áo choàng và đội mũ trùm xuống che kín mặt, tay ôm Cây Thánh Giá trên ngực, sẽ được rước trang trọng từ tu viện xuống lối đi trong vườn và vào trong một khu đất thánh, nơi chôn cất rất nhiều thi thể của các tu sĩ từ xa xưa.

Slowly Father Abbot rose to his feet and went out of the lonely cell, went to his own office and instructed a monk. Minutes later there came the tolling of the bell to signal the passing from life to death. Silently the monks rose from their beds and donned their robes and filed down to the Chapel to recite the Service for the Dead. Later when the sun was rising above the horizon there would be a mass, a mass which all would attend, and then the body of Brother Arnold wrapped in his robe and with his cowl covering his face, with his hands about the Crucifix on his chest, would be carried in solemn procession from the monastery down the garden path and into the little consecrated patch which held so many of the bodies of the monks from times long gone.

Ngay lúc này, hai tu sĩ đang chuẩn bị đi ra khu đất thánh và đào huyệt, ngôi mộ hướng ra biển, nơi mà thân xác của Cha Arnold sẽ yên nghỉ cho đến khi bị phân hủy hoàn toàn. Hai tu sĩ đi ra ngoài với thuổng trên vai, im lặng, mỗi người đều suy nghĩ, tự hỏi cái gì đang đón đợi ở cuộc sống bên kia? Holy Writ đã dạy chúng ta nhiều điều nhưng liệu Holy Writ có thể biết được rõ ràng và  chính xác không? Cha Arnold đã luôn nói mặc cho sự tức giận của Tu viện trưởng rằng người ta không nên quá coi trọng Holy Writ mà chỉ nên xem ông ta như một người chỉ đường, như một người dẫn dắt, một sự dẫn hướng. Cha Arnold thường nói rằng các kiếp sống sau chỉ là sự tiếp nối của cuộc sống trên Trái đất. Trước đây đã có lần Cha Arnold đã ngồi bất động và im lặng trong Nhà ăn. Trước mặt ông là một chai nước có ga chưa mở. Đột nhiên ông đứng dậy, nắm lấy cái chai trong tay và nói: ‘Các đạo hữu, hãy xem này, cái chai này cũng giống như cơ thể con người, nó cũng có linh hồn ở trong đó. Khi tôi mở nắp của cái chai này ra, có bọt sủi lên, có sự xáo trộn của nước trong chai và các bọt khí như linh hồn của một con người bùng phát.’ Ông nói, ‘Hỡi các đạo hữu, đó là cách mà chúng ta rời khỏi cơ thể của mình khi kết thúc cuộc sống này. Cơ thể của chúng ta chỉ là vỏ bọc cho linh hồn bất tử, và khi cái vỏ bọc đó cũ nát và không thể gắn bó với linh hồn được nữa thì linh hồn sẽ buông rời thể xác và đi đến một nơi nào đó, và điều gì xảy ra ở nơi đó? Thế đấy, các đạo hữu, mỗi người chúng ta và mọi người trong chúng ta đến lượt mình sẽ khám phá ra điều đó.’ Cha Arnold đã rót nước bên trong chai vào một chiếc cốc thủy tinh rồi uống ngay và nói: ‘Bây giờ cái thân xác là nước đã biến mất cũng giống như thân xác của chúng ta rốt cuộc sẽ biến mất vào Đất và cuối cùng sẽ bị phân hủy thành các bộ phận cấu thành nên nó.’

Even now two monks were preparing to go out to the consecrated patch and dig the grave, the grave facing the sea, in which Brother Arnold’s body would rest until its final dissolution. The two monks went out with spades upon their shoulders, silent, each thinking, wondering maybe what was beyond this life? Holy Writ taught us much but could Holy Writ be depended upon exactly, precisely? Brother Arnold had always said to the anger of Father Abbot that one could not take Holy Writ too seriously but only as a pointer of the Way, only as a guide, as a signpost. Brother Arnold had often said that the life hereafter was merely a continuation of the life on Earth. Brother Arnold had been sitting silent and still some time ago in the Refectory. Before him was an unopened bottle of aerated water. Suddenly he had risen to his feet, grasped the bottle in his hands and said, ‘Look, my brothers, this bottle resembles the human body, in it we have a soul. As I take off the cap of this bottle there is bubbling, there is turmoil in the water in the bottle and the gases like unto the soul of a human burst forth. That is how, my brothers,’ he had said, ‘we leave our bodies at the termination of this life. Our bodies are but clothing to the immortal soul, and when the clothing is old and tattered and no longer able to hold together then the soul relinquishes the body and goes elsewhere, and for what happens elsewhere? Well, my brothers, each of us and every one of us will discover that in his turn.’ Brother Arnold had tipped the contents of the bottle into a glass and drank it swiftly saying, ‘Now the body which was the water has disappeared just as the body which is our body will eventually disappear into the earth and there be resolved at last into its component parts.’

Hai tu sĩ nghĩ đến điều đó khi họ bước xuống con đường và nhìn xung quanh để tìm một mảnh đất thích hợp để đào huyệt. Huyệt sâu 6 feet, dài 6 feet, rộng 3 feet. Họ đào đất trong im lặng, cẩn thận gạt bỏ những vạt cỏ và đặt nó sang một bên để sau này có thể dùng nó để đắp lên ngôi mộ mới. 

The two monks thought of that as they walked down the path and looked around for a suitable patch in which to dig the grave. Six feet deep by six feet long by three feet wide. Without a word they set to work, carefully removing the turf and putting it aside so that later it might be used to cover a new grave.

Trong tu viện, thi thể của Cha Arnold đang được chuyển đi, chuyển đi trước khi xác chết bị cứng đờ bất cứ lúc nào bởi vì khi đó việc phải gập thi thể khi đi qua những khúc cong của cầu thang sẽ trở nên khó khăn. Bốn tu sĩ mang một tấm bạt có tay cầm ở mỗi góc. Họ cẩn thận luồn nó xuống dưới cơ thể của Cha Arnold và đặt chính xác thi thể của ông ấy vào giữa tấm bạt. Họ cẩn thận kéo các cạnh của tấm bạt lên sao cho các tay cầm ở trên đầu và ở dưới có thể lồng vào nhau, đầu trên khóa với nhau và đầu dưới khóa với nhau. Họ cẩn thận nhấc thi thể ra khỏi giường, cẩn thận di chuyển ra ngoài qua cửa phòng, và hơi phải xoay sở một chút, họ đã đưa được thi thể ra ngoài hành lang. Họ di chuyển chậm chạp và đọc thuộc lòng các câu kinh trong Nghi lễ dành cho người chết, họ mang xác xuống cầu thang và vào phòng chờ của Nhà nguyện. Họ kính cẩn đặt thi thể lên bục kê quan tài, sắp xếp áo choàng để rủ xuống tự nhiên và đặt dép lên chân của người chết. Cẩn thận, họ đặt lại cây Thánh giá giữa hai bàn tay người chết, họ thận trọng kéo mũ xuống để che đi khuôn mặt. Sau đó, bốn tu sĩ bắt đầu từng người một thay nhau thức đêm canh gác thi thể của người đạo hữu đã qua đời của họ cho đến khi ánh sáng ban mai tràn tới, lúc đó thánh ca sẽ được cất lên.

In the monastery the body of Brother Arnold was being moved, being moved before rigor mortis supervened because that would have made bending the body around the curves of stairs difficult. Four monks had a canvas sheet with handles at each corner. Carefully they slid it under the body of Brother Arnold and positioned his body exactly in the middle of the canvas sheet. Carefully they drew the sides of the sheet up so that the handles at the top and the bottom could interlock, the head end interlock together and the foot end interlock together. Carefully the monks lifted the body off the bed, carefully they manoeuvred it out through the doorway of the cell, and with a little struggle they managed to get it turned in the corridor. Moving slowly and reciting the set phrases of the Ritual for the Dead they carried the body down the stairs and into the Chapel annex. Reverently they placed the body on the bier, arranging the robes to fall naturally and placing sandals upon the dead monk’s feet. Carefully they replaced the Crucifix between the dead hands, carefully they drew down the cowl to cover the features. Then the four monks began their solitary vigil guarding the body of their dead Brother until there would come the light of day when again masses would be sung.

Vậy là Cha Arnold đã rời bỏ cơ thể của mình. Ông cảm thấy rằng như đang được nâng lên trên. Nhìn xuống với một chút lo lắng, ông thấy có một sợi dây màu xanh bạc kéo dài từ cơ thể hiện tại của mình đến xác chết đáng sợ đang nằm trên giường ở bên dưới. Ông có thể lờ mờ phân biệt được các khuôn mặt xung quanh mình. Có chắc  đó là mẹ của ông không? Và có cả cha của ông nữa. Họ đã đến từ nơi linh thiêng để giúp ông, hướng dẫn ông trên hành trình của mình. 

 And so Brother Arnold left his body. He felt that he was being borne upwards. Looking down with some trepidation he found a silvery blue cord stretching from his present body to the pallid ghastly corpse resting on the bed below. About him he could half distinguish faces. Surely that was his mother? And there was his father. They had come from beyond the Shades to help him, to guide him on his journey.

Con đường phía trước tối tăm. Nó dường như là một đường hầm dài, vô tận, một đường hầm hoặc có thể là một cái ống. Nó trông như một cái gì đó giống như một cái ống mà các tu sĩ mang theo qua các ngôi làng vào một số dịp nhất định, một cái ống được đỡ bởi một cái cột để họ nâng cái ống lên dựa vào cửa sổ để mọi người có thể cho những đồ quyên góp của mình qua miệng ống và nó sẽ trượt xuống vào một túi đựng bên dưới.

The way ahead was dark. It seemed to be a long, endless tunnel, a tunnel or maybe a tube. It seemed to be something like the tube which the monks carried in procession through the village on certain occasions, a tube supported by a pole which they raised up against windows so that people could give their contributions to the mouth of the tube and it would slide down to a collecting bag below.

Cha Arnold cảm thấy mình đang từ từ di chuyển đi lên trong ống này. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ. Ông quay đầu xuống và thấy sợi chỉ bạc đang mỏng dần và thậm chí khi ông nhìn xuống thì nó đã tách ra và biến mất, nó có vẻ giống như một sợi dây chun, bị cắt và co rút lại do sự đàn hồi của chính nó. 

Brother Arnold felt himself moving slowly up this tube. It was a most peculiar feeling. He turned his head down and saw that the silver cord was thinning and even as he looked the cord parted and was no more, it seemed like a ribbon of elastic which, cut, withdrew under its own elasticity.

Khi ông nhìn lên phía trên, dường như có một luồng ánh sáng rực rỡ. Ông nhớ về cái lần ông xuống giếng của tu viện để giúp làm sạch bộ lọc nước bên dưới. Khi nhìn lên ông thấy một vòng sáng rực rỡ chiếu sáng trên miệng giếng. Lúc này ông cũng có cảm giác tương tự, cảm giác đang được nâng đỡ và đẩy lên cao, hướng lên phía có ánh sáng, và ông tự hỏi bây giờ phải làm sao?

Above him as he peered upwards there seemed to be a bright light. He was reminded of when he had gone down the monastery well to help clear the water filters below. Looking up he had seen the bright circle of light which illuminated the top of the well. He had a similar feeling now, the feeling was that he was being borne upwards, upwards to the light, and he wondered what now?

Đột nhiên, giống như con quỷ trong rạp bị mắc bẫy, Arnold đang ở đâu? Ông đang xuất hiện trên thế giới khác, hay đang ở trong một cảnh giới tồn tại khác. Ông không biết nó là gì vào lúc này. Ánh sáng quá mạnh đến nỗi ông phải che mắt lại, và sau một vài giây ông thận trọng nhấc tay ra khỏi mắt và thốt lên một tiếng yếu ớt, ‘Ôi, ôi trời!’ trước cảnh tượng trước mắt ông. Có tiếng cười khúc khích vui vẻ ở bên cạnh, ông quay lại nhìn chằm chằm vào người từng là cha mình. ‘Chà, Arnold,’ người kia nói, ‘chắc chắn là con có vẻ ngạc nhiên, ta nghĩ rằng con sẽ nhớ tất cả mặc dù phải nói rằng’ ông ta nở một nụ cười thiểu não, ‘ta đã qua đời lâu rồi.’ Arnold nhìn quanh. ‘Vâng, con đã rất ngạc nhiên’ ông nói. ‘Nơi này có vẻ giống như Trái đất, ồ, một phiên bản tốt hơn nhiều, con thừa nhận với cha như vậy, nhưng nó có vẻ là một thế giới kiểu Trái đất, và con nghĩ chúng ta sẽ sống tốt, con hoàn toàn không biết nó là cái gì, nhưng ở một kiểu thế giới trừu tượng hơn, không phải thế giới này.’ Ông chỉ tay về phía các tòa nhà và khu công viên. ‘Đây trông giống như một phiên bản Trái đất, sang trọng dễ sợ!’

Suddenly, like a stage devil appearing through a trap, Arnold appeared where? he appeared on this other world, or in another plane of existence. He did not know what it was for the moment. The light was so intense that he had to cover his eyes, and after a few moments he cautiously lifted his hands away from his eyes and uttered a weak, ‘Oh, oh my!’ at the sight before him. There came an amused chuckle by his side, and he turned and gazed at the one who used to be his father. ‘Well, Arnold,’ said the other, ‘you certainly seem astonished I should have thought you would have remembered it all although I must say ’ he gave a rueful smile, ‘that it took me long enough.’ Arnold gazed around. ‘Well, I certainly AM astonished ‘ he said. ‘This place appears to be like Earth, oh a much better version of it, I grant you, but it does appear to be an Earth-type world, and I thought we would be going to well, I don’t quite know what, but to a more abstract type of world, not this.’ He gestured at the buildings and the parklands. ‘This does look like a frightfully posh version of the Earth!’

‘Arnold, con còn rất nhiều điều phải học, hay phải học lại’, người cha quá cố của ông nói. ‘Những nghiên cứu của riêng con, kinh nghiệm lâu năm của chính con đã dẫn con đến niềm tin rằng nếu một thực thể, một linh hồn con người, nếu đi thẳng từ thế giới Trái đất lên các tinh cầu cấp độ cao thì sự minh mẫn của nó sẽ hoàn toàn bị phá hủy, bởi sự chuyển đổi quá mạnh.’ Ông ta nhìn Arnold một cách nghiêm túc và nói, ‘Hãy nghĩ về một cái ly, một cái ly thủy tinh bình thường nếu con thích; con không thể đặt thẳng một cái ly lạnh vào nước quá nóng, nó sẽ bị vỡ, và có nhiều việc tương tự như vậy, nó phải được thực hiện một cách nhẹ nhàng, thật nhẹ nhàng. Tương tự như vậy với một người bị bệnh lâu ngày và chỉ nằm trên giường, con không mong đợi một ngày nào đó anh ta sẽ ra khỏi giường, đi lại và chạy quanh như thể anh ta là một vận động viên điền kinh được đào tạo chuyên nghiệp. Ở đây cũng vậy. Con vừa ở trên một thế giới rất rất thô sơ, đó là Trái Đất, con đang trên đường đi lên và đây là một giai đoạn trung gian, chúng ta nói nó là điểm dừng, ở đó người ta có thể tạm dừng một lúc để lấy sức.’

 ‘Arnold, you have quite a lot to learn, or to re-learn’ said his former father. ‘Your own studies, your own long experience should have led you to the conviction that if an entity, a human soul, went direct from the Earth world up to high celestial spheres then it would be entirely to destroy that entity’s sanity, the change would be so great.’ He looked hard at Arnold and said, ‘Think of a glass, an ordinary glass tumbler if you like; you cannot place a cold glass straight into very hot water, it would fracture, and there are many things of a like nature, it must be done gently, gently. In the same way with a person who has been ill for a long time and confined to bed you don’t expect him to get out of bed one day and to walk around and run around as if he were a well trained athlete. It is the same here. You were upon a crude, crude world, the Earth, you were on the upward climb and here is an intermediate stage, let us say a halt where one can pause awhile and get one’s bearings.’

Arnold ngạc nhiên nhìn quanh trước vẻ đẹp của các tòa nhà, ngạc nhiên trước màu xanh của cây cối không chút khiếm khuyết. Ở đây, ông thấy thú vật và chim chóc không hề sợ hãi con người. Đây dường như là một thế giới nơi tất cả mọi mối quan hệ đều tốt đẹp.

Arnold looked around marvelling at the beauty of the buildings, marvelling at the green of the greenery and the trees without blemish. Here, he saw, animals and birds were in no way afraid of the humans. This seemed to be a world of good rapport.

‘Sớm thôi, ta tin rằng con sẽ đi lên những cõi cao hơn, nhưng trước khi có thể quyết định, con cần phải đi đến Sảnh kí ức. Khi ở đó, con có thể được khôi phục lại bộ nhớ yếu ớt của mình về chuyến thăm viếng Trái Đất vừa rồi của con.’

 ‘Con khá thích thú với cách nói,“đi lên”’, Arnold nói, ‘Con nghĩ các Tinh cầu bậc cao như Thiên đường và Địa cầu hoặc các cõi tồn tại, cha gọi thế nào cũng được, chúng hòa lẫn vào nhau và có lẽ thậm chí chiếm cùng một không gian, vậy tại sao lại nói là “đi lên”?’

 ‘Soon, I have no doubt, you will be going up to higher planes, but before that can be decided you have to go to the Hall of Memories. When there you may recover your flagging memory of your visit here before.’

‘I am quite amused at the way we say, “up” ’, said Arnold ‘I thought the Heavenly Spheres and the Earth Spheres or planes of existence call them what you will were intermingled and perhaps even occupied the same space, so why say “up”?’

Một người đàn ông khác ngắt lời. Anh ta đã theo dõi cuộc trò chuyện nhưng không nói gì cả. Bây giờ anh ấy mới nhận xét một cách nhẹ nhàng, ‘Đúng, là đi lên, không còn nghi ngờ gì nữa. Chúng ta đi lên một tần số rung động cao hơn. Nếu chúng ta đi đến nơi có rung động thấp hơn thì khi đó là chúng ta đi xuống, và trên thực tế, có những nơi có rung động thấp và những người ở đây phải đi xuống đó vì một lý do nào đó, có lẽ để giúp đỡ một linh hồn yếu đuối nào đó, nên nói ngay rằng anh ấy hay cô ấy đang xuống một cõi này cõi kia. Nhưng đây là một giai đoạn trung gian; chúng ta đến đây từ Trái đất. Chúng ta muốn rời khỏi Trái đất và nếu chúng ta đi xuống thì có thể nói rằng chúng ta đang tiến gần hơn đến lõi Trái đất, và đó là điều ông không muốn làm đâu. Vì vậy, đó là đi lên, đi lên đến nơi có rung động cao hơn, đi lên để thoát ra khỏi tâm Trái đất, và ông, Arnold, sẽ sớm đi lên một lần nữa. Tôi không nghi ngờ điều đó vì đây chỉ là một giai đoạn trung gian, con người từ đây đi lên một cõi cao hơn hoặc họ xuống Trái đất một lần nữa để học thêm bài học. Nhưng bây giờ đã đến lúc ông đi đến Sảnh Ký ức, mọi người đều phải đến đó trước tiên. Ông hãy đi đường này.’

Another man broke in. He had been watching but saying naught. Now he remarked mildly, ‘Well, it is up, there’s no doubt about it. We go up to a higher vibration. If we were going to go to a lower vibration then we should be going down, and, in fact, there are such places of lower vibration and people here who have to go down there for some reason, perhaps to help some weary soul, would soon say that he or she was going down to plane So-and-So. But this is an intermediate stage; we come up to it from the Earth. We want to get away from the Earth and if we were going down then you could say we were getting nearer to the Earth’s core, and that’s what you do not want to do. So up it is, up to a higher vibration, up to get away from the centre of the Earth, and soon you, Arnold, will be going up again. Of that I have no doubt for this is just an intermediate stage, people from here go up to a higher plane or they go down to the Earth again to learn more lessons. But now it’s time you went to the Hall of Memories, every one must go there first. Come this way.’

Họ cùng nhau đi bộ dọc theo một con phố có vẻ được giữ gìn rất cẩn thận. Không có ô tô, không có bất kỳ loại phương tiện cơ giới nào. Con người đi bộ và động vật cũng đi bộ một cách thường xuyên bên cạnh con người. Ngay sau đó Arnold và người bạn mới của ông bỏ lại sau lưng các con phố và đi vào một con đường nhỏ mà Arnold có thể nhìn thấy nhiều cây xanh ở cuối đường. Ông đi cùng người kia, cả hai đều chìm trong suy nghĩ của riêng mình. Chẳng bao lâu họ đi đến cuối con đường nhỏ, có một công viên tuyệt đẹp ở phía trước họ với những loài cây tươi tốt, những bông hoa xinh xắn thuộc loại mà Arnold chưa từng thấy bao giờ. Và ở trung tâm của công viên là công trình kiến trúc mái vòm vĩ đại mà người ta gọi là Sảnh Ký ức. Họ đứng một lúc để ngắm cảnh, ngắm màu xanh của cây cối, những sắc màu sống động của các loài hoa, và màu xanh thẳm của bầu trời được phản chiếu rực rỡ trên mặt hồ phẳng lặng gần Sảnh Ký ức.

Together they walked along, walked along what seemed to be a very well-kept street. There were no cars, no mechanically propelled vehicles of any kind. People walked and the animals walked as well, often alongside the humans. Soon Arnold and his new friend turned away from the streets and entered a little lane at the end of which Arnold could see much greenery. He walked along with the other, both concerned about their own thoughts. Soon they came to the end of the little lane and there was a beautiful, beautiful park ahead of them with wonderful plants, wonderful flowers of a type which Arnold had never seen before. And there in the centre of the park was the great domed structure which the people termed the Hall of Memories. They stood awhile taking in the picture, the greenery, the vivid colours of the flowers, and the very brilliant blue of the skies which were reflected brightly on the surface of the placid lake near the Hall of Memories.

Như trùng hợp, Arnold và người bạn mới của ông cùng bước trên con đường dẫn đến Đại Sảnh. Họ vừa đi vừa băn khoăn về những người khác đang ngồi trên ghế hay đang nằm trên cỏ. Họ thường xuyên thấy có người leo lên các bậc thang để đến Sảnh Ký ức, và họ cũng thấy những người khác đi ra từ một lối ra bí ẩn nào đó. Một số trông rất phấn khởi; một số trông như đang kiềm chế cảm xúc. Arnold nhìn và rùng mình trước sự kỳ lạ của tất cả những cái đó. Trong Sảnh Ký Ức đã xảy ra chuyện gì, điều gì sẽ xảy đến với ông? Liệu ông có được cho là xứng đáng để đi lên một rung động cao hơn, đến một hình thái sống trừu tượng hơn không? Hay ông sẽ bị đưa xuống Trái đất để bắt đầu lại một cuộc sống khác?

As of one accord Arnold and his new friend stepped upon the path leading to the Hall. They walked along wondering perhaps about the other people who were sitting on benches or lying on the grass. Frequently they would see a person mount the steps to the Hall of Memories, and they would see others coming out from some hidden exit. Some were looking elated; some were looking chastened beyond expression. Arnold looked and gave an anticipatory shudder at the strangeness of it all. What happened in the Hall of Memories, what would happen to him? Would he pass muster and go on up to a higher vibration, to a more abstract form of life? Or would he be sent down to Earth to start another life all over again?

‘Nhìn kìa, nhìn kìa,’ người bạn mới của Arnold thì thầm. Anh ta thúc vào người Arnold và chỉ về một hướng nhất định. Anh ta hạ giọng thì thầm khi nói, ‘Đây là những thực thể từ một cõi tồn tại cao hơn nhiều, họ đến để quan sát mọi người, nhìn họ kìa.’

 ‘Look, look,’ murmured Arnold’s new friend. He nudged Arnold and pointed in a certain direction. His voice sank to a whisper as he said, ‘These are entities from a much higher plane of existence, they have come to observe the people, look at them.’

Arnold nhìn và ông thấy hai quả cầu vàng rực rỡ, chúng dường như được tạo ra từ ánh sáng, chúng rực rỡ đến mức Arnold thậm chí không thể đoán được hình dạng thật. Những quả cầu vàng lướt đi như bong bóng vàng trong làn gió nhẹ. Chúng lướt đi và đến những bức tường của Sảnh Ký ức. Chúng chạm vào đó và đi xuyên thẳng qua mà không để lại dấu vết nào trên tường. 

Arnold looked and he saw two bright golden spheres, they seemed to be made of light, they were so brilliant that Arnold could not even guess at the true shape. The golden spheres were drifting along like golden bubbles in a light breeze. They drifted along and came to the walls of the Hall of Memories. They touched and went straight through without leaving a mark on the structure.

‘Tôi phải tạm biệt ông bây giờ,’ người bạn của Arnold nói. ‘Nhưng hãy cứ vui lên, hãy giữ vững tinh thần, ÔNG không có gì phải lo lắng cả, đó là điều chắc chắn. Tạm biệt. Sẽ có người ở đây đợi ông khi ông bước ra. Vui vẻ lên, đừng có vẻ u sầu như thế!’ Nói xong anh ta đột ngột quay người thoái lui.

 ‘I must leave you now,’ said Arnold’s friend. ‘But keep cheerful, keep your pecker up, YOU have nothing to worry about, that’s for sure. Goodbye. There will be someone here to meet you when you come out. Cheer up, don’t look so mournful!’ With that he turned abruptly and retraced his steps.

Arnold, với sự e ngại gia tăng, không, mà hoàn toàn sợ hãi, ông nặng nề lê bước đến cuối con đường dẫn đến lối vào Sảnh Ký ức. Đến chân những bậc đá đồ sộ, ông đứng lại và cố gắng nhìn xung quanh để xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng không, rốt cuộc ông vẫn không dừng lại, có một sức mạnh nào đó đang đẩy ông đi, lôi kéo ông. Ông bước nhanh lên các bậc thang và dừng lại một chút trước cánh cửa lớn. Đột nhiên, một cách lặng lẽ, nó mở ra và Arnold bị đẩy vào trong, bị đẩy hay bị kéo vào trong, không quan trọng, ông đang ở bên trong và cánh cửa đóng lại sau lưng ông.

Arnold, with mounting apprehension no! with complete fright, plodded on to the end of the path to where the entrance to the Hall of Memories began. At the foot of the great stone steps he stopped and tried to look around to see what was happening, but no, he did not stop after all, some force was propelling him, drawing him. He hurried up the steps and stopped a moment before the great entrance door. Suddenly, silently, it opened and Arnold was pushed inside, pushed or dragged inside, it does not matter which, he was inside and the door shut behind him.

Người dịch: Lê Minh Trang

Biên tập: Phạm Thị Liễu

Tổng biên tập: Trung tâm VMC